Chủ Nhật, 23 tháng 12, 2012

Sáu điều kỳ diệu ở Thủy điện Sơn La


Hơn 100 kỹ sư trẻ đã làm chủ công nghệ hiện đại để vận hành hiệu quả nhà máy Thủy điện Sơn La-Ảnh: VGP/Minh Huệ

Trong cuộc trò chuyện dành cho phóng viên Cổng TTĐT Chính phủ, ông Thái Phụng Nê, Phái viên Thủ tướng Chính phủ, Phó Ban chỉ đạo nhà nước các dự án Thủy điện Sơn La, Lai Châu, đã nói về 6 điều kỳ diệu làm nên kỳ tích của Thủy điện Sơn La.

Yếu tố đầu tiên là thiết kế kỹ thuật do Công ty cổ phần Tư vấn xây dựng điện 1 thực hiện trong giai đoạn 2004-2006 với nhiều giải pháp sáng tạo có giá trị kinh tế, đặc biệt tạo điều kiện giảm thời gian xây dựng so với quy định tại quyết định đầu tư.

Điển hình như đề xuất "Bố trí cống dẫn dòng kiệt tại vị trí của tường bê tông trọng lực, thay thế tường này làm công trình ngăn các kênh dẫn dòng với hố móng lòng sông" vừa giúp giảm khối lượng, vừa giảm được thời gian xây dựng. 

Tháng 7/2006, tư vấn thiết kế lại đề xuất thay biện pháp đổ bê tông đập dâng bằng công nghệ dầm lăn với phụ gia khoáng là tro bay của Nhiệt điện Phả Lại được tuyển chọn lại. Đây là kết quả của 3 năm nghiên cứu sáng tạo trong phòng thí nghiệm và tại các bãi thực nghiệm ở hiện trường, vừa làm giảm giá thành xây dựng, vừa tăng được về cường độ đổ bê tông đập dâng bình quân đến 120.000 m3/tháng, giảm thời gian xây dựng. 

Trong thời gian lập thiết kế kỹ thuật, đơn vị tư vấn thiết kế đã dành nhiều thời gian để tham khảo các tiến bộ về phương tiện vận chuyển thiết bị siêu trường, siêu trọng, từ đó, đề xuất thay phương án nhà máy 8 tổ máy (8 x 300 MW) bằng phương án nhà máy 6 tổ máy (6×400 MW); thay phương án máy biến áp 1 pha bằng máy biến áp 3 pha. Với đề xuất này, trọng lượng kiện hàng vận chuyển lên tới 280 tấn so với 100 tấn khi xây dựng Thủy điện Hòa Bình.

Yếu tố thứ hai là tổ hợp nhà thầu xây lắp với các đơn vị là Tổng Công ty Sông Đà, Tổng công ty Lắp máy Việt Nam (LILAMA), Tổng công ty Xây dựng Trường Sơn và Tổng công ty Xây dựng và Phát triển hạ tầng (LICOGI), đều là những đơn vị thi công thủy điện năng lực mạnh, giàu kinh nghiệm.

Ra quân vào cuối năm 2003 để triển khai xây dựng mặt bằng công trường và đồng thời tận dụng thời gian chuẩn bị công trường trong 2 năm (2004-2005) để thi công các công trình dẫn dòng khi nhận được thiết kế. Tổ hợp nhà thầu này đã làm nên một sự kiện chưa từng có khi Lễ khởi công đồng thời là Lễ ngăn sông ngày 2/12/2005, sớm hơn 1 năm so với yêu cầu của quyết định đầu tư. 

Điều đáng khen ngợi là suốt 6 năm thi công, các nhà thầu luôn hoàn thành đúng hạn, mua sắm và lắp đặt kịp thời hệ thống thiết bị thi công hiện đại được sử dụng ở các công trình đập lớn trên thế giới. Từ đó, đã làm nên một kỷ lục về cường độ đắp đập bê tông đầm lăn ở Việt Nam: 8.000 m3/ngày và 190.000 m3/tháng, lên đập 18 m/tháng, gần bằng cường độ đắp bê tông đầm lăn ở Trung Quốc (240.000 m3/tháng). 
 
Yếu tố thứ ba là chủ đầu tư đảm bảo vốn, thanh toán kịp thời khối lượng hoàn thành hàng tháng cho các nhà thầu. Đồng thời linh họat trong vận hành thử nghiệm cửa van sự cố cửa xả sâu của công trình xả lũ và cửa van sửa chữa, lưới chắn rác của cửa nhận nước nhà máy khi các công trình này còn đang xây dựng dở dang ở cao độ thấp. Nhờ đó, việc tích nước hồ chứa để chạy các tổ máy được tiến hành đúng tiến độ.

Nhiều chuyên gia đến kiểm tra và thăm công trình thủy điện Sơn La đều nhận xét hiếm thấy sự phối hợp nhịp nhàng giữa các đơn vị thực hiện dự án trên công trường như vậy. 


Gian máy Thủy điện Sơn La-Ảnh: VGP/Minh Huệ

Yếu tố thứ tư là sự tích cực của UBND các tỉnh Sơn La, Điện Biên và Lai Châu trong triển khai di dân, tái định cư (TĐC). 

Dự án di dân TĐC của Thủy điện Sơn La có khối lượng lớn nhất từ trước đến nay, hơn 30 nghìn hộ dân chịu ảnh hưởng, trong đó hơn 20 nghìn hộ dân phải di chuyển. Kết hợp với công tác di dân ở công trình quan trọng quốc gia, dự án đã phát triển các công trình hạ tầng giao thông, điện, trường, trạm… thực sự góp phần phát triển kinh tế – xã hội khu vực Tây Bắc.

Rút kinh nghiệm từ 2 khu di dân thí điểm Tân Lập (Sơn La) và Si-Pa-Phìn (tỉnh Lai Châu cũ) theo hình thức nhà nước xây dựng nhà ở cho dân, phương án sản xuất theo hướng hiện đại (nuôi bò sữa, trồng chè Đài Loan…), UBND các tỉnh đã kiến nghị và được Thủ tướng Chính phủ quyết định chọn hình thức khoán tiền cho dân (bằng giá trị nhà ở do nhà nước xây dựng). Điều này đã giúp người dân tận dụng vật liệu nhà cũ tự xây dựng nhà cho mình tại khu, điểm TĐC phù hợp với quy hoạch chi tiết; phương án sản xuất được chọn theo hướng cây trồng, vật nuôi phù hợp với trình độ dân trí để đảm bảo ổn định cuộc sống trước mắt và từng bước phát triển toàn diện, bền vững nhiều năm sau TĐC.

Yếu tố thứ năm là Bộ Giao thông vận tải đã chỉ đạo các đơn vị giao thông hoàn thành đúng hạn cầu Pa-Uôn và đoạn tránh ngập quốc lộ 279; cầu mới Hang Tôm và đoạn tránh ngập của quốc lộ 12. Đây là hai trong các cầu kết cấu hiện đại, có chiều cao lớn nhất, nhì trong nước.

Yếu tố thứ sáu là Ban chỉ đạo nhà nước về Dự án thủy điện Sơn La do Phó Thủ tướng Chính phủ trực tiếp làm Trưởng ban đã hoạt động thực sự hiệu quả, giúp Thủ tướng Chính phủ ban hành, bổ sung đầy đủ, kịp thời các cơ chế, chính sách và hướng dẫn về quản lý, thực hiện các dự án thành phần, tổ chức kiểm tra điều độ đều đặn hàng tháng, 6 tháng và khi cần thiết; kịp thời tháo gỡ các vướng mắc để đảm bảo tiến độ thực hiện dự án.

Minh Huệ

Tin liên quan:

Thủy điện Sơn La – Bản hùng ca sông Đà  



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét