"Người đẹp ngủ trên rừng"
Từ thành phố Bắc Giang, có thể lên hồ Cấm Sơn theo nhiều con đường nhưng phổ biến nhất là đi theo Quốc lộ 1, đến Hữu Lũng (Lạng Sơn) rồi rẽ lên mặt đập và đường từ Lục Ngạn đi Sơn Hải hoặc rẽ sang Tân Sơn, Cấm Sơn. Nhìn chung, các con đường đều dễ đi và đều được tận hưởng cảm giác trong lành, yên bình của vùng núi cao, được điều hoà bởi một cái hồ khổng lồ nước quanh năm trong xanh. Riêng đi theo trục lộ Chũ – Hồng Giang – Biên Sơn – Phong Vân – Tân Sơn – Cấm Sơn, nếu gặp may, có thể được tận hưởng những sắc màu văn hoá đa dân tộc, những phiên chợ vùng cao, những vạt nương chín vàng ngô, lúa…
Nguyên những năm 70 của thế kỷ trước, khi hàng vạn nhân công hoàn thành con đập thuỷ lợi tưới tiêu cho cả ngàn ha ruộng đồng vùng xuôi của hai tỉnh Bắc Giang, Lạng Sơn. Mặc dù thân đập, cửa cống thuộc địa bàn của huyện Hữu Lũng nhưng lúc đó người ta quyết định lấy tên Cấm Sơn để đặt cho hồ. Nguyên do thời điểm đó Cấm Sơn bao gồm cả ba xã Cấm Sơn, Sơn Hải, Tân Sơn bây giờ, diện tích mặt nước xã quản lý chiếm 9/10 tổng diện tích lòng hồ. Theo thiết kế thuỷ lợi, hồ Cấm Sơn nằm ở độ cao khoảng 300m so với mực nước biển, trong lòng hồ là hàng trăm đảo lớn nhỏ, bên bờ nhấp nhô hàng nghìn ngọn núi cao hơn 700m so với mặt nước quanh năm xanh ngăn ngắt như thể đất, trời, mây, nước hoà làm một. Hồ Cấm Sơn chính là cảm hứng cho nhạc sĩ Phó Đức Phương viết ca khúc Hồ trên núi nổi tiếng: "Núi ơ… núi, thuyền ơ… thuyền, mây ơ… mây, nước ơ… nước…"
Trên hết, từ khi đắp đập dâng nước ngập tạo thành lòng hồ rộng lớn, hồ Cấm Sơn, với nguồn lợi thuỷ sản gần như vô tận đã thành nơi nuôi sống bao nhiêu thế hệ người dân vùng cao. Những năm trước, người ta đánh lưới bắt được cá to hàng chục cân là chuyện thường. Ngoài ra, các loại cá nhỏ, tôm, cua… thì vô thiên lủng. Người dân nơi đây vẫn kể cho nhau nghe chuyện những nhà gần mặt hồ hôm nào hết gạo chỉ cần cầm cái dậm chạy đi một lát là có cả chục cân tôm, tép, cua, ốc mang ra phố chợ đổi gạo. Thế mới có chuyện dân vùng lòng hồ ăn cá phát ngán, trong khi các loại lương thực như gạo, ngô, sắn không đủ ăn luôn phải nhờ nguồn cứu đói của huyện. Chỉ bởi một lẽ ở đây không có đất sản xuất còn mặt hồ lại quá rộng. Lại có chuyện dân vùng lòng hồ bơi thuyền giỏi hơn đi trên đất bằng, trẻ con ba, bốn tuổi đã biết bơi lặn như rái cá. Vào cuối tuần trăng, khi cá đi ăn và chuẩn bị sinh sản, dân lòng hồ đánh bắt nhiều quá ăn không được, bán không hết bèn chọn những con cá mương, cá thiểu loại nhỏ ướp muối, phơi khô để dành. Những năm 80, 90 thế kỷ trước, món cá khô lòng hồ Cấm Sơn là món ăn có giá trị cao đối với hàng nghìn hộ dân miền núi Lục Ngạn. Nhiều khi tự lý giải rằng có thể do những năm đó đói kém, cơ thể thiếu chất trầm trọng nên ăn gì mà không thấy ngon nhưng lại khó giải thích được cho đến bây giờ món cá khô hồ Cấm Sơn vẫn là món "đặc sản" rất được người dân thành phố ưa chuộng. Tuy nhiên, những năm gần đây, số lượng cá, tôm trong vùng hồ đã giảm đáng kể do lượng người khai thác nhiều, lại sử dụng nhiều phương pháp tận thu. Trong khi đó, nguồn thuỷ sản bổ sung không đáng kể so với diện tích lòng hồ quá lớn.
Xã Cấm Sơn, cũng như các xã khác bao quanh lòng hồ, vẫn là những xã đặc biệt khó khăn của huyện miền núi Lục Ngạn. Dù đã được triển khai nhiều chương trình, dự án nhưng đời sống của đa số người dân còn nhiều khó khăn. Nguyên nhân chính vẫn do điều kiện địa hình thiếu đất sản xuất, hệ thống giao thông chưa hoàn chỉnh, dân cư phân bố thưa thớt. Bên cạnh đó, xuất phát điểm của người dân quá thấp, hoàn toàn không có sức bật từ nội lực để phát triển. Với hơn 500ha mặt nước do xã quản lý có thể coi là một lợi thế vô cùng tiềm năng, Cấm Sơn rất cần những dự án, nguồn tài trợ để làm động lực cho quá trình phát triển. Có thể kể đến những dự án tiềm năng như: du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng, nuôi trồng thuỷ sản, lâm nghiệp…nếu được đầu tư thoả đáng sẽ mang lại giá trị to lớn về kinh tế – xã hội không chỉ đối với người dân vùng lòng hồ. Đó là lý do người ta ví hồ Cấm Sơn như cô gái say ngủ giữa núi rừng đang chờ người đến đánh thức.
Bảo vệ và phát huy nguồn lợi lòng hồ
Lòng hồ Cấm Sơn còn lưu giữ nhiều nét đặc sắc trong đời sống và văn hoá của đồng bào các dân tộc: Tày, Nùng, Dao, Cao Lan, Sán Chí. Đây là những dân tộc bản địa cư trú lâu đời và có gắn bó mật thiết với vùng đất này cách đây hàng trăm năm. Có thể thấy những nét độc đáo trong điệu hát Sli – Lượn, Shoong hao; lễ hội xuống đồng, cầu mùa, mừng năm mới, nhà mới; những nếp nhà sàn ẩn khuất sau những thân gỗ lớn, những cánh rừng trồng xanh mướt mát đang toả khói lam chiều; cũng có thể lênh đênh trên thuyền giữa lòng hồ nhấn nhá những khúc chè lam, nắm xôi bảy màu bắt mắt hay xôi trứng kiến thơm lựng; vào mùa quả thì nơi đây bạt ngàn vải thiều, nhãn, na, hồng ngọt lịm; thịt lợn cắp nách, gà leo núi và cá lòng hồ nhắm với chút rượu quê nút lá chuối sẽ mang đến cảm giác lâng lâng như giữa chốn bồng lai.
Những nghiên cứu về thổ nhưỡng, địa chất, khí hậu lòng hồ Cấm Sơn cho thấy ngoài những sản vật sẵn có, vùng lòng hồ có thể nuôi trồng các loại thuỷ sản giá trị cao như: cá tầm, lăng, chiên, vược, rau câu… Một trong những dự án đầu tiên nuôi cá tầm lòng hồ do Trung tâm giống thuỷ sản cấp I (Sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn Bắc Giang) và Công ty Cá Tầm Việt Nam triển khai đã cho kết quả tích cực. Năm 2010, lứa cá đầu tiên được đưa từ Đà Lạt về nuôi với số lượng khoảng sáu nghìn con lớn nhanh, thích nghi với môi trường mới. Đến nay, sau hơn hai năm thử nghiệm, cá tầm nuôi ở Cấm Sơn đã được xuất bán tại thị trường trong nước và xuất khẩu. Cá thịt giá từ 250-280 nghìn đồng/kg, trọng lượng khoảng 3-4 kg trở lên. Trứng cá tầm chủ yếu xuất khẩu, giá từ 1.000 -1.800 USD/kg. Trại nuôi ở gần đập Cấm Sơn hiện có 20 nghìn con cá tầm, bao gồm cá bố mẹ (500 con, con to nhất đạt trọng lượng 20kg, chiều dài khoảng 1,5 m), cá giống và cá thương phẩm. Tuy nhiên, đó mới chỉ là một dự án rất nhỏ giữa lòng hồ mênh mông này. Còn lại hơn hai nghìn ha diện tích mặt nước không có bất kỳ một dự án hay phương tiện nuôi trồng nào. Người dân lòng hồ chỉ làm mỗi một cách là khai thác tự nhiên: đánh lưới, thả rọ, câu, kích điện, kéo vó. Mà như thế, hiệu quả, năng suất đánh bắt được lại tuỳ thuộc vào nhiều yếu tố và thường là không ổn định. Gần đây, trên mặt nước ven bờ xuất hiện khá nhiều phương tiện đánh bắt mới mà dân địa phương gọi là vó đèn – một loại vó lớn chu vi hàng trăm m2, có thắp đèn ban đêm để dụ cá. Mỗi chiếc vó như thế thường phải đầu tư 60-70 triệu đồng, nghĩa là cả một gia tài đối với người dân nơi đây. Bù lại, lượng cá đánh bắt được nhiều và ổn định hơn. Nếu hôm nào thời tiết tốt, mỗi vó đánh được dăm ba chục cân cá là bình thường.
Anh Trần Ngọc Thoại, Phó Chủ tịch UBND xã Cấm Sơn cho biết: "Hằng năm Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đều cấp cho xã một lượng cá giống nhất định để thả nhằm bảo tồn hệ sinh thái tự nhiên lòng hồ. Tuy vậy, đó mới chỉ là giải pháp tình thế chứ về lâu dài, hồ Cấm Sơn cần một quy hoạch, kế hoạch dài hơi cả về nhân lực và tiền của. Chúng tôi luôn kêu gọi và hoan nghênh các nhà đầu tư tìm cơ hội trong vùng lòng hồ". Đối với Cấm Sơn, xã đã có đường điện đến 100% số hộ, sóng truyền hình, điện thoại di động cũng đã phủ kín khắp vùng lòng hồ. Xã cũng đang được đầu tư mở con đường vượt qua núi ở bờ bắc hồ nhằm phá thế độc đạo của đường thuỷ. Cùng với nỗ lực kết nối tuyến du lịch tâm linh Tây Yên Tử, con đường này sẽ là hi vọng mở cánh cửa phát triển cho toàn bộ cư dân lòng hồ.
Trong những năm qua, việc bảo vệ và phát huy nguồn lợi từ lòng hồ luôn được đặt ra như là yêu cầu cấp thiết của các cấp chính quyền địa phương. Nguồn lợi từ cá đang dần sụt giảm cũng như sự biến mất của một số loại cá có trọng lượng lớn do lối đánh bắt tận thu khiến đời sống một bộ phận người dân gặp nhiều khó khăn; giao thông đường thuỷ không được cải thiện khiến hàng hoá nông-lâm sản của cư dân lòng hồ rất khó bán hoặc giá rất rẻ. Ở đây, phương tiện đi lại chủ yếu vẫn là thuyền gỗ chèo tay; một số hộ sắm được thuyền máy chỉ để dành đi đâu xa hoặc chở đông người. Cán bộ xã muốn đi kiểm tra hồ hoặc giao ban bốn xã lòng hồ thì phải thuê thuyền máy. Căn nhà do huyện đầu tư dùng cho việc giao ban được xây trên một hòn đảo nằm ở vị trí trung tâm của bốn xã. Tất cả mọi hoạt động liên quan đến đời sống, dân sinh, cá mú hay trồng rừng… trong vùng lòng hồ đều được tổ chức họp bàn ở ngôi nhà này. Chính từ khó khăn về giao thông nên điều kiện học hành, chữa bệnh, tiếp cận với văn hoá… của đại bộ phận dân cư lòng hồ là điều xa xỉ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét